Đúc được những vật mỏng và phức tạp Tốc độ dòng chảy kim loại cao làm tăng khả năng điền đầy lòng khuôn. Tạo dòng chảy rối, chất lượng đồng đều, ít bị rỗ khí. Năng suất đúc cao Nhược điểm Thiết bị phức tạp Dưới áp lực cao, vận tốc dòng kim loại lỏng lớn làm cho khuôn chóng mòn, do đó vật liệu chế tạo khuôn phải có độ bền cao.
Trong việc đúc tượng đồng có những quá trình chuyển thể nào của đồng I. Sự nóng chảy. Ban đầu khi chưa thắp sáng, cây nến ở thể rắn. Khi thắp nến, phần ở đầu nến tiếp xúc với ngọn lửa nóng II. Sự đông đặc. Sự đông đặc là sự chuyển từ thể lỏng sang thể rắn. Nhiệt độ này gọi là nhiệt độ nóng chảy.
Đồng Nai Hưng Yên hồ cá ĐÚC uốn góc / SIÊU TRONG DẤU KEO - NHIỀU PHÂN LOẠI đã mài thành bể. Thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tổng đài hỗ trợ: 19001221 - Email: cskh@hotro.shopee.vn. Chịu Trách Nhiệm Quản Lý Nội Dung: Nguyễn Đức Trí - Điện thoại liên hệ: 024 73081221 (ext 4678)
A. Biểu đạt, diễn tả, lựa chọn, đông đúc. B. Diễn tả, tấp nập, nhộn nhịp, biểu thị. C. Biểu đạt, bày tỏ, trình bày, giãi bày. đó là tổng hợp kỹ năng lí thuyết và bài xích tập thực hành về từ đồng nghĩa tương quan trong giờ đồng hồ Việt. Cần nắm rõ
Tết Trung thu đã góp phần thắt chặt hơn tình đoàn kết trong cộng đồng, góp phần hun đúc tình yêu quê hương, đất nước của con trẻ qua những bài ca, điệu múa và trò chơi dân gian giản dị. Chính phủ luôn quan tâm và Đại sứ quán luôn ủng hộ cộng đồng trong việc
Xuất phát từ làng nghề đúc đồng truyền thống Khu A, thị trấn Lâm, Ý Yên, Nam Định. Với hơn 20 năm hình thành, xây dựng và phát triển đến nay, đồ đồng mỹ nghệ Quang Huy đã trở thành đơn vị đúc đồng lớn mạnh trong và ngoài nước.
eWakrse. Thể hiện sự tư tưởng tín ngưỡng Việc đúc tượng phật bằng đồng thể hiện lòng tôn kính thờ cúng của con người với thần linh, với một thế giới siêu nhiên luôn bên cạnh để bảo vệ cho cuộc sống con người. Các bức tượng đồng được đúc thường là tượng phật a di đà, tượng phật bà quan tâm, tượng Di Lặc.. Mỗi bức tượng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Như tượng Di Lặc thể hiện cho niềm hạnh phúc, biến những khổ đau, bất hạnh, giận dữ, buồn phiền thành niềm vui. Tượng Phật bà quan âm được xem là sự từ bi, bác ái, bỏ qua những đau buồn, phiền muộn trong cuộc sống để sống một cách tốt hơn… Giữ gìn nền văn hóa đồ đồng đang dần mai một trong dân tộc. Văn hóa đồ đồng đã xuất hiện lâu đời, nhưng do sự phát triển của xã hội nên người ta ít sử dụng đồ đồng hơn. Vì thế, văn hóa đồ đồng dường như đang dần phai màu trong cuộc sống. Việc đúc tượng phật đồng giúp nâng cao hơn giá trị của nền văn hóa đồ đồng. Đúc tượng Phật là một nghệ thuật của những người thợ tài hoa và có tâm với nghề. Tượng phật mang nhiều giá trị tâm linh khác nhau. Vì thế, khi chọn tượng phật cần chú ý đến chất lượng của sản phẩm để đảm bảo ý nghĩa mà những bức tượng mang lại trong cuộc sống con người Đến với Đồ Đồng Việt chắc chắn bạn sẽ luôn đạt được sự hài lòng về chất lượng. Là một xưởng đúc tượng phật lớn trên toàn quốc với những người thợ có kinh nghiệm lâu năm trong việc đúc tượng phật sẽ đảm bảo với bạn về độ chính xác, đẹp mắt của sản phẩm. Hơn nữa, có những cam kết về nguyên vật liệu và chất lượng sản phẩm, luôn tạo sự hài lòng cho bạn. Đăng nhập
Đúc đồng là ngành nghề có lịch sử lâu đời tại Việt Nam. Trải qua thăng trầm lịch sử, nghề đúc đồng vẫn được gìn giữ qua nhiều thế hệ và ngày càng phát triển hưng thịnh hơn. Có những làng nổi tiếng với nghề đúc đồng mỹ nghệ, nhưng cũng có vùng chỉ chuyên đúc đồng cơ khí. Hãy cùng Cơ khí Quốc Dương tìm hiểu đúc đồng là gì và những thông tin thú vị nhất về nghề đúc đồng ở bài viết dưới đây. NỘI DUNG1. Nghề đúc đồng là gì?2. Lịch sử lâu đời hàng ngàn năm của nghề đúc đồng3. Đúc đồng tạo ra sản phẩm ẩn chứa giá trị caoSản phẩm đúc đồng lâu bền theo năm thángĐúc đồng có giá trị thẩm mỹ caoSản phẩm đúc đồng mang quốc hồn văn hóa4. Đúc đồng là cả một quá trình của sự khéo léo tâm huyết5. Con đường nhiều triển vọng của nghề đúc đồng trong tương lai Đồng thuộc nhóm kim loại màu tương tự như nhôm. Khác với các kim loại đúc khác như gang, thép,… – thuộc nhóm kim loại đen. Nghề đúc đồng là một nhánh nhỏ của nghề đúc nói chung. Đúc là phương pháp chế tạo phôi thông qua phương pháp nấu chảy kim loại. Sau đó kim loại nóng chảy được rót vào lòng khuôn có hình dáng và kích thước của vật đúc. Kim loại đông đặc sẽ tạo ra vật mẫu có hình dáng giống lòng khuôn đúc. Đúc đồng là nghề truyền thống, là công việc thủ công do những người thợ có chuyên môn thực hiện. Cũng với cơ chế đun nóng dung dịch đồng, tạo khối và trạm trổ, người thợ tạo ra thành phẩm với các hình khối khác nhau và có vẻ ngoài sáng bóng. 2. Lịch sử lâu đời hàng ngàn năm của nghề đúc đồng Thực tế đồng là kim loại đầu tiên mà con người tìm ra và sử dụng. Theo một số tư liệu lịch sử, đúc đồng đã xuất hiện ở Việt Nam cách đây khoảng 4000 năm vào thời Phùng Nguyên hậu kỳ thời Đá mới – sơ kỳ thời Đồ đồng. Đến thời Đông Sơn cũng là thời kỳ các Vua Hùng dựng nước cách đây 2000 – 3000 năm, nghề đúc đồng đạt đến đỉnh cao phát triển. Khi dòng lịch sử dịch chuyển đến thời Lý Trần, các thế hệ thợ đúc đồng còn dùng thêm cả vàng, bạc để chế tác ra nhiều sản phẩm như tượng Phật, chuông khánh… Hiện nay nghề đúc đồng vẫn còn tồn tại và tiếp tục phát triển tại một số tỉnh thành, chủ yếu là miền Bắc Việt Nam. Một số làng nghề nổi tiếng như làng Ngũ Xã Hà Nội, làng Đại Bái Bắc Ninh chuyên về đúc đồng mỹ nghệ tượng đồng, lư hương thờ cúng…. Trong khi đó các làng nghề đúc đồng Mỹ Đồng hay An Dương Hải Phòng lại nổi danh với nghề đúc đồng cơ khí. Cơ khí Quốc Dương hoạt động trong lĩnh vực đúc cơ khí từ năm 2006. Rất nhiều các sản phẩm đúc được gia công tại xưởng chúng tôi. Quý bạn đọc có thể xem thêm các sản phẩm đúc cơ khí tại tại đây! 3. Đúc đồng tạo ra sản phẩm ẩn chứa giá trị cao Sản phẩm đúc đồng lâu bền theo năm tháng Trước hết bởi đồng là nguyên liệu có sức bền thuộc top 1 trong các loại đồ đúc. Theo thời gian dù chi tiết máy móc nhỏ hay cả bức tượng lớn cũng giữ nguyên vẻ đẹp ban đầu. Chính đặc tính lâu bền trước môi trường đã giúp các chi tiết máy bằng đồng rất được ưu tiên sử dụng trong ngành công nghiệp cơ khí chế tạo. Sản phẩm đúc đồng chi tiết cơ khí Sản phẩm đúc đồng và đúc nhôm tại cơ khí Quốc Dương Đúc đồng có giá trị thẩm mỹ cao Đặc điểm này dễ thấy nhất ở sản phẩm đúc đồng mỹ nghệ. Nhờ vẻ đẹp này mà chúng được trưng bày ở những nơi trang trọng như đền thờ, bàn thờ… Các nghệ nhân đồ đồng đã kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ kính, chất liệu sang trọng và sự mềm mại trong họa tiết. Từ đó tạo nên nét đẹp trong nghệ thuật đúc đồng. Sản phẩm đúc đồng mang quốc hồn văn hóa Chính lịch sử của nghề đã vun đắp lên những giá trị năm tháng cho từng sản phẩm đúc đồng. Nghề đúc đồng tồn tại lâu đời và sớm trở thành nét đẹp văn hóa của Việt Nam. Không chỉ chiếc trống đồng Đông Sơn hay lư hương hoa văn tinh xảo mà ngay cả chi tiết máy tàu thủy, dù nhỏ bé cũng chứa đựng hình ảnh đẹp về người thợ lao động chăm chỉ. Những giá trị tốt đẹp đó thôi thúc nhiều người yêu nghề đúc đồng quyết tâm gìn giữ. 4. Đúc đồng là cả một quá trình của sự khéo léo tâm huyết Quy trình tạo ra một sản phẩm đúc đồng đòi hỏi bất kỳ người thợ lành nghề nào cũng phải đặt 100% tâm huyết và sự khéo léo. Chỉ kỹ thuật đúc đồng chuẩn mới cho ra đời những sản phẩm chất lượng. Quy trình đúc đồng cơ bản gồm các khâu 1 Tạo mẫu, 2 Tạo khuôn, 3 Nấu chảy nguyên liệu, 4 Rót khuôn, 5 Hoàn thiện sản phẩm. Tạo khuôn mẫu từ cát Rót đồng nóng chảy vào khuôn Mỗi công đoạn đều đóng vai trò quyết định đến chất lượng cuối cùng của thành phẩm. Khâu vẽ mẫu là khởi nguồn cho ý tưởng hình dáng sản phẩm. Khâu tạo khuôn khó nhằn đòi hỏi những người thợ lành nghề tham gia. Các bước nấu chảy nguyên liệu, rót nguyên liệu vào khuôn yêu cầu sự tỉ mỉ, kiên nhẫn để đảm bảo an toàn và chất lượng thành phẩm. Từ đó bước cuối cùng sẽ gia công để hoàn thiện sản phẩm và xuất xưởng. Tìm hiểu chi tiết quy trình đúc đồng là gì ở bài viết tại đây! Hoặc xem minh họa các bước cơ bản trong đúc đồng khuôn cát tươi ở video dưới đây 5. Con đường nhiều triển vọng của nghề đúc đồng trong tương lai Không ít bạn trẻ đánh giá nghề đúc đồng không có tương lai. Điều này có điểm đúng bởi đúc đồng là nghề thủ công đòi hỏi sự tỉ mỉ và bỏ sức lao động. Không phải bạn trẻ nào cũng sẵn sàng dành nhiều tâm huyết như vậy cho nghề. Trên thực tế, chỉ riêng nghề đúc đồng cơ khí vẫn luôn và sẽ có chỗ đứng trong ngành công nghiệp. Nền công nghiệp của Việt Nam, đặc biệt tại một số tỉnh thành như Hải Phòng phát triển mạnh. Từ đó đòi hỏi nguồn lực rất lớn cho ngành. Nhiều chi tiết máy hay bộ phận máy móc thiết bị cũng đều được sản xuất từ những xưởng đúc đồng chuyên nghiệp. Do đó nền công nghiệp còn phát triển thì nghề đúc đồng vẫn còn phát triển theo. Qua bài viết trên bạn đã giải đáp được câu hỏi “đúc đồng là gì” rồi chứ? Hy vọng những thông tin hữu ích về nghề đúc đồng đã cho bạn nhiều góc nhìn mới thú vị hơn. Quý khách hàng tại Hải Phòng và trên cả nước quan tâm dịch vụ đúc kim loại màu, đúc kim loại đen, gia công cơ khí chính xác và sản xuất kết cấu thép không gỉ, hãy liên hệ ngay đến Cơ khí Quốc Dương qua hotline hoặc địa chỉ Fanpage. Chúng tôi là đơn vị uy tín hàng đầu tại Hải Phòng, cam kết đem đến cho khách hàng trải nghiệm dịch vụ và sản phẩm tốt nhất! => Điền thông tin để nhận tư vấn và báo giá chính xác nhất CÔNG TY TNHH CƠ KHÍ QUỐC DƯƠNG Nhà máy Km 88, Quốc Lộ 5 mới, KCN Nam Sơn, xã Nam Sơn, huyện An Dương, Hải Phòng HOTLINE 0383 489 589 HOTLINE GĐ KỸ THUẬT – 0904 184 501 EMAIL ckquocduong FANPAGE Cơ khí Quốc Dương Đăng nhập
Từ chiều sâu 4000 năm với bao nhiêu biến thiên, nghề đúc đồng cổ truyền Việt Nam, còn để lại một số trung tâm ngày nay vẫn còn hoạt động, trước hết liên quan đến Tổ Nghề. 1. Trung tâm đúc đồng Đề Cầu và Đông Trung tâm đúc đồng Ngũ Trung tâm đúc đồng Quảng Bố và Đại Làng hàn đồng Trang Trung tâm đúc đồng phường Đúc ở Một số làng đúc đồng khác. Nghề đúc đồng ở nước ta được khởi lên từ văn hóa Phùng Nguyên 4000 năm trước. Song cụ Tổ nghề mà các nơi đúc đồng thờ, thực ra không phải là tổ sáng tạo mà chỉ là tổ phục hưng sau 3000 năm đã có nghề. Trở lại nhân vật Khổng Lồ trong truyền thuyết về ông tổ đúc đồng, tùy từng vùng được đồng nhất với một trong hai vị thiền sư có thật ở thời Lý là Dương Không Lộ 1016 – 1094 và Nguyễn Minh Không 1065 – 1141. Dù hai thiền sư sống cách nhau gần nửa thế kỷ, song truyền thuyết đã tái sáng tạo lịch sử, để hai thiền sư trên đã cùng với Từ Đạo Hạnh sang Tây Phương tu luyện, khi đắc đạo rồi trở về nước, mỗi người tu ở một nơi. Từ Đạo Hạnh tu ở chùa Thầy, sau đầu thai làm vua Lý Thần Tông. Nguyễn Minh Không tu ở chùa Keo, sau có công chữa khỏi ác bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được ban quốc tính, và phong là quốc sư, có đền thờ ở phố Lý Quốc Sư Hà Nội. Còn Dương Không Lộ tu ở chùa Phả Lại Bắc Ninh có hai chú tiểu là Phạm Quốc Tài quê ở Đề Cầu còn gọi là Đề Kiều – Thuận Thành – Bắc Ninh và Trần Lạc quê ở Đông Mai còn gọi là làng Nôm hay cầu Nôm – Văn Giang – Hưng Yên nhưng xưa là Bắc Ninh, ngoài việc tu hành còn giỏi đúc đồng. Có thuyết kể chính thiền sư Dương Không Lộ sau khi xin được đồng của Trung Quốc, đã về chùa núi Phả Lại đúc quả chuông khổng lồ, khi đánh thử thì trâu vàng chạy theo, nhưng khi tiếng chuông tắt thì trâu mất hút. Bèn xuống hồ Lãng Bạc đầm, sư bèn đạp chuông rơi xuống sông Lục Đầu. Nơi chuông rơi xuống, về sau vẫn được gọi là Vực Chuông. Khi hai chú tiểu đã thạo nghề, sư phụ cho họ về quê dạy dân làng đúc đồng. Dân Đề Cầu và Đông Mai biết đúc đồng thờ Không Lộ làm tổ sư, và thờ cả hai chú tiểu là Phạm Quốc Tài và Trần Lạc. Từ những thiền sư là con người của lịch sử, nhưng đã huyền thoại hóa, dân gian xây dựng nên truyền thuyết ông Khổng Lồ dạy dân đúc đồng. Nhân vật ông Khổng Lồ chính là sự khái quát một dạng anh hùng văn hóa kỳ vĩ, và truyền thuyết cũng ghi nhận một sự thực là địa danh của hai nơi đúc đồng nổi tiếng Đề Cầu và Đông Mai. Đề Cầu và Đông Mai là hai xã, từ xa xưa đã thuộc hai huyện khác nhau Siêu Loại và Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc hai huyện của hai tỉnh Thuận Thành – Bắc Ninh; Mỹ Văn – Hưng Yên. Nhưng lại sát cạnh nhau, nên sự phân chia chỉ có tính cách hành chính, còn trong sinh hoạt xã hội, kinh tế và tình cảm hoàn toàn hòa nhập, có thể coi là một trung tâm gọi gọn là Đề Cầu. Đề Cầu là một xã lớn, nên ở thời Nguyễn, tên xã trở thành tên tổng, cũng là một xã cổ, nên cả xã có 4 thông đều có tên chữ và tên nôm là Châu Mỹ Mé, Diễn Tiền Điền, Hạ Rí Hạ và Thượng Rí Thượng. Ngày nay, Đề Cầu mang tên mới là Nguyệt Đức thuộc huyện Thuận Thành của Bắc Ninh. Đông Mai là một xã nhỏ, thời Nguyễn thuộc tổng Đại Từ huyện Văn Giang, nhưng trong thời Pháp thuộc tổng Đại Từ nhập vào tỉnh Hưng Yên, nay là làng Cầu Nôm thuộc xã Đại Đồng huyện Mỹ Văn – Hưng Yên. Làng Đông Mai tục gọi là làng Nôm, đầu làng có chợ là nơi trao đổi hàng hóa và phẩm vật mà của Đề Cầu chiếm hàng đầu, nên gọi là chợ Cầu Nôm, tên chợ gọi quen thành tên làng. Câu ca dao “Đồng nát thì về Cầu Nôm” đã nói lên hoạt động chính của dân Cầu Nôm là chuyên mua đồng nát, về nấu lại thành đồng thau bán cho các làng Văn Ó Ó Nghé, Xuân Phao Ó Phèo, Long Thượng Rồng. Cùng xã Đề Cầu đúc ra các vật bằng đồng như chuông, đỉnh, tượng, sanh, nồi, linh,… rồi Cầu Nôm lại mua sản phẩm đúc của các làng trên, để mang bán khắp chợ miền xuôi và miền ngược. Trung tâm đúc đồng Đề Cầu này, vừa sản xuất vừa phân phối, nguyên liệu chủ yếu là tái chế từ đồng nát. Sách Phong Thổ Hà Bắc đời Lê, ghi nhận “Đề Cầu đúc đồng, đúc thành các thứ tiền đồng, đỉnh đồng, sanh đồng, nồi đồng không thiếu thứ gì”. 2. Trung tâm đúc đồng Ngũ Xã. Vào thời Lê, nhân dân 4 thôn của xã Đề Cầu và nhân dân Đông Mai bị nhà nước trưng tập về kinh đô Thăng Long đúc tiền đồng, và những khí vật bằng đồng cần dùng cho triều đình, sau được phép ở lại bán đảo thuộc hồ Trúc Bạch. Lập ra một làng đúc đồng mới gọi là Ngũ Xã Tràng, để nhắc các thế hệ con cháu nhớ về “Trường đúc của nhân dân năm xã” gốc ở Đề Cầu và Đông Mai, cũng rước tổ sư Không Lộ ở quê ra thời trong đền riêng. Ở đây, có đất tốt, dẻo mượt cần cho việc đắp lò, làm khuôn, lại sẵn nước cần dùng trong kỹ thuật đúc. Các thợ đúc Ngũ Xã đã đúc hoàn hảo pho tượng đồng Trấn Vũ nặng 6,600 cân. Sang thế kỷ XVIII, Nguyễn Huy Lượng ở bài Tụng Tây Hồ phú đã xác nhận lò đồng Ngũ Xã để lửa suốt đêm khiến đom đóm phải ghen tức “Lửa đóm ghen năm xã gây lò”. Ở thế kỷ XIX, Ngũ Xã ngoài việc đúc các vật phẩm bằng đồng, còn đúc tiền gia công cho nhà nước. Làng đúc đồng Ngũ Xã đã có sự phân công sản xuất theo các chi, mỗi chi chuyên đúc một vài chủng loại, có năm chi chính về đúc tượng, đúc chuông, đúc đồ thờ, đúc đồ mỹ nghệ, và đúc đồ dân dụng. Tuy nhiên, đúc những vật phẩm lớn thì cần có sự hợp tác của nhiều thợ thuộc các chi khác, thậm chí từ các nơi khác. Chẳng hạn năm 1952, trong khi đúc pho tượng A Di Đà cho chùa làng, đã huy động tới 100 thợ Ngũ Xã, 40 thợ từ quê cũ Bắc Ninh sang, 4 người từ Hải Dương và Sơn Tây tới. Họ đúc đồng, chủ yếu theo sự đặt hàng của dân làng, của nhà nước và cả của tư nhân. Đôi khi còn bán ra nước ngoài như ở thế kỷ XVII, thuyền trưởng người Anh là Brewster đã mua hai quả chuông đồng ở Kẻ Chợ, mỗi quả nặng chừng 500 cân Anh khoảng 250kg nhưng khi đi thuyền đến phố Hiến thì cả hai chuông đều bị giữ lại. 3. Trung tâm đúc đồng Quảng Bố và Đại Bái. Quảng Bố hay Quảng Bá có tên nôm là làng Vó, xưa là một xã nổi tiếng nên tên xã cũng là tên tổng. Còn Đại Bái có tên nôm là làng Bưởi, xưa cũng là một xã, nằm sát hồ ở phía Tây Nam của làng Vó. Hai làng sát liền nhau, cùng chung sinh hoạt và nghề nghiệp, nhưng cho đến thời Pháp thuộc vẫn thuộc hai khu vực hành chính riêng Quảng Bố thuộc tổng Quảng Bố huyện Lang Tài – Bắc Ninh. Nay Quảng Bố là một thôn của xã Quảng Phú cùng với xã Đại Bái đều thuộc huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh. Hai xã đúc đồng này được coi là một trung tâm, và gọi gọn theo thói quen trong vùng là nghề đồng Đại Bái. Xã Đại Bái có 4 thôn, cả 4 thông đều làm nghề gò đồng và đều thờ tổ sư là Nguyễn Công Truyền. Thần phả ở làng ghi nhận, Nguyễn Công Truyền 989 – 1069 người thời Lý từng theo cha vào Thanh Hóa sinh sống, lớn lên vào quân đội từng được phong là Điện Tiền tướng quân. Khi cha mất, ông xin từ quan để đưa mẹ về quê và sáng chế ra nghề gò đồng. Nhưng… sách Bắc Ninh Toàn Tỉnh Địa Dư Chí lại chép Nguyễn Công Truyền người thời Lê Sơ, từng đi theo đoàn sứ bộ sang Trung Quốc, ở bên ấy ông đã quan sát nghề đồng, khi về nước được phong là Phấn Lực tướng công, đã dạy dân không chỉ đúc đồng mà còn gò đồng. Vì thế, dân Đại Bái lập nên phố Hàng Đồng cho đến nay, vẫn còn có nhiều người gò đồ đồng. Ở Đại Bái, đã có sự phân công sản xuất theo từng thôn, mỗi thôn cũ ngoài thờ tổ sư Nguyễn Công Truyền còn thờ thêm một vị hậu tiên sư làm tổ của ngành. Thôn Tây thờ hậu tiên sư ngành đánh mâm là Phạm Ngọc Thạch. Thôn Ngoài thờ hậu tiên sư ngành đánh nồi là Nguyễn Viết Lai và Vũ Tiết Thái. Thôn Xôn thành lập sau, chuyên đánh chậu không thấy nói hậu tiên sư. Đại Bái còn giữ được tờ trát của triều đình Huế, đề ngày mùng 4 tháng 2 năm Đồng Khánh 3 1888 theo đó chúng ta biết hồi Pháp mới chiếm đóng xong Bắc Kỳ, đã đưa đồ đồng Đại Bái đi dự đấu xảo, và dành được bằng khen. Sau đó, theo lệnh của tổng đốc Ninh Thái, thợ cả Nguyễn Văn Thạch đã dẫn 23 thợ bạn người làng Đại Bái, mang theo đầy đủ đồ nghề vào Huế để đúc, gò, chạm đồng trang trí cho các cung điện. Sách Phong Thổ Hà Bắc Đời Lê ghi nhận “Đại Bái có nghề dập thau làm đủ các thứ mâm thau, chậu thau, ấm thau đều rất khéo”. Ở đây, cũng có chợ Bưởi có tiếng trong vùng, nên tên nôm Bưởi còn được gọi đầy đủ là Bưởi Nồi. Ca dao địa phương có câu “Muốn ăn cơm trắng cá trôi. Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh”. Còn Quảng Bố ở bờ nam sông Bái nổi tiếng là một làng khoa cử, có nhiều phong tục đẹp, nhưng nổi tiếng về nghề đúc đồng, ca dao địa phương có câu “Muốn ăn cơm trắng cá ngon. Thì về làng Vó nặn khuôn đúc nồi”. Tuy thế, tổ sư đúc đồng ở đây lại khá chung chung, có tên là Công Nghệ và tên hiệu là Trực Nghệ, hàm ý chỉ người có công trực tiếp dạy nghề đúc cho dân, mất sớm khi 36 tuổi, và chưa có gia đình, giấy cả tên họ để tránh sự tranh giành giữa các tộc hệ. Cũng có người nói ông họ Nguyễn. Truyền rằng, ông từng làm quan trong bộ Công và đã theo học nghề đúc đồng, khi thạo nghề thì xin từ quan về dạy cho dân, mất ngày 23 tháng 8. Sau trở thành ngày giỗ tổ nghề của cả làng Vó, và mọi người vẫn khiêng tiếng Nghệ mà đọc là Vàng. Từ xa xưa ở trung tâm Đại Bái này, đã có sự phối hợp như ở trung tâm Đề Cầu Quảng Bố mua các nguyên liệu, phế liệu đồng về luyện lại cho đồng nhất, đúc thành những phôi đồng, lại có thể cán mỏng thành đồng lá để cho Đại Bái giọt thành những đồ dùng khác nhau. Như vậy, về kỹ thuật Quảng Bố đúc đồng mà sách Phong Thổ Hà Bắc Đời Lê viết là Trú Đồng thì ở Đại Bái lại giọt đồng sách trên viết là Đả Đồng, và ca dao gọi là Đánh Nồi. Về sau, Quảng Bố cũng đúc đồng, đi từ chỗ đúc đồ thờ, đến chỗ đúc cả đồ dùng phục vụ sinh hoạt của nhân dân. Trung tâm đồ đồng Đại Bái nằm cạnh xã Lãng Ngâm, từ thời văn hóa Đông Sơn đã chiếm đỉnh cao của kỹ thuật đúc đồng, mà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật tinh khéo. Phải chăng, trung tâm Đại Bái là sự phát triển trực tiếp kỹ thuật đúc đồng của người Việt cổ ở Lãng Ngâm, thời các vua Hùng? Bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí khi nói đến đồ đồng cả nước, cũng chỉ nhắc đến đồ đồng Đại Bái. 4. Làng hàn đồng Trang Liệt. Ngoài hai trung tâm Đề Cầu và Đại Bái, Bắc Ninh còn có làng Trang Liệt tên nôm là làng Sặt, nay thuộc xã Đồng Quang huyện Từ Sơn làm nghề buôn bán đồng và sửa chữa đơn giản đồ dùng bằng đồng. Nhờ những người buôn đồng ở Sặt, mà đồ đồng Đại Bái được đưa đến khắp các tỉnh trên miền Bắc, họ còn mua hoặc đổi đồ đồng mới lấy đồ đồng cũ. Với kỹ thuật gò, hàn đơn giản, người làng Sặt đã cứu sống những đồ dùng bằng đồng bị thủng, hoặc bị méo. Chính vì hoạt động của những người này, mà tên nôm của làng Trang Liệt được gọi đầy đủ là làng Sặt Đồng. 5. Trung tâm đúc đồng phường Đúc ở Huế. Trên khu đất phía Tây Bắc làng Dương Xuân ở bờ nam sông Hương, từ thời các chúa Nguyễn đã ra đời một công xưởng đúc đồng gọi là Trú Tượng Ty, sau đấy sang thời Nguyễn phát triển thành Phường Đúc. Vùng Huế từ khi trở thành thủ phủ của Đàng Trong và đặc biệt khi trở thành kinh đô nước ta dưới thời Nguyễn, có một yêu cầu lớn là khối lượng đồ sộ về đồ đồng với một chất lượng cao. Trong ký ức của nhiều người dân Huế, các bộ vạc đồng, cửu vị thần công, cửu đỉnh và nhiều đồ dùng khác của triều đình Huế, đều là sản phẩm của những người thợ đúc đồng ở Phường Đúc Huế. Ký ức của nhiều thợ đúc ở đây, cũng nhớ tổ tiên họ từ miền Bắc di chuyển vào theo cuộc Nam Tiến của các chúa Nguyễn, và được bổ sung ở thời Nguyễn bằng chế độ công tượng, có nhiều người hết hạn đã ở lại Huế lập nghiệp. Khi quân Trịnh chiếm được Phú Xuân, Lê Quý Đôn đã ghi nhận tình hình đúc đồng ở đây của các chúa Nguyễn Có Ty thợ đúc các cục, người Kinh Nhơn 30 người, người Bản Bộ 30 người,… Trên cơ sở ấy, về sau này, Phường Đúc có 5 xóm vẫn giữ các tên cổ là Kinh Nhơn, Bản Bộ, Trường Đúc, Giang Đinh, Giang Tiền. Mỗi xóm dù chỉ có mươi nóc nhà ở hai bên dọc theo đường xóm, nhưng vẫn có một ngôi đình riêng quy mô tương đương với mọi ngôi đình làng trong vùng. Phải chăng, mỗi thôn có một nguồn gốc riêng mà việc thờ ở đình riêng, là ảnh xạ của việc thờ nơi quê gốc? Trên số thợ đúc làm việc trong các công xưởng, từ đời Minh Mạng, nhà nước chủ trương phương thức phát triển theo kiểu cha truyền con nối. Sách Đại Nam Thực Lục ghi rõ “Vua Minh Mạng sai Bộ Công xem xét những người thợ đúc, thợ bạc trong Sở Đốc công, hễ ai có con đẻ, em ruột đến tuổi cứ nghề ấy cho vào sổ hạng thợ, không được vào sổ hạng dân, cũng không được đi làm ở các sở ngạch khác. Tổng lý sở tại dám dung túng, giấu diếm sẽ bị tội, quan địa phương không xét ra cũng bị lỗi”. Chính lối đào tạo từ trong gia đình này, các thế hệ thợ nối tiếp nhau giữ được mánh lới nhà nghề, và khi chế độ công tượng không còn hoạt động, thì các lò đúc đồng của từng gia đình cứ thế mà phát triển. Trong ký ức của nhiều người, người ta vẫn truyền tổ tiên xa đã di cư từ các làng đúc đồng ở ngoài Bắc vào. Theo cuốn Nguyễn Tộc Gia Phổ viết năm Tự Đức 8 1857 và sao lại năm Đồng Khánh 2 1887 của họ Nguyễn ở thông Kinh Nhơn, thì thủy tổ là ông Nguyễn Văn Lương nguyên quán ở tổng Đồng Xá, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Con cháu ở đời thứ 2 có ông Nguyễn Văn Đào, được nhiều người nhận là tổ sư nghề đúc đồng, ở đời thứ ba, và thứ tư đều được phong đến tước bá là tước thường dành cho các thợ giỏi, đến đời thứ 5 ở chi 2, có ông Nguyễn Văn Hòa được phong tước Mỹ Đức bá, giữ chức Trú tượng Kinh Nhơn ty cai quan, và ở chi 4 có ông Nguyễn Văn Thúy ngày 10 tháng 1 năm Cảnh Hưng 29 1768 được phong làm Chánh Dinh Xuất Nội Trú Tượng Ty. Bên cạnh đó, lại có những người thợ đúc đồng từ phía Nam ra. Cuốn Nguyễn Văn Tộc Phái của họ Nguyễn Văn ở thôn Thượng 4, xã Thủy Xuân, Huế lại xác nhận thủy tổ là ông Nguyễn Văn Ngạn định cư ở đây từ năm Cảnh Thịnh 2 1794. Nhưng lại nói thêm, ông Ngạn đã theo cha và ông nội về kinh làm việc đến mình được 3 đời, có quê gốc ở làng Phước Kiều, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, dòng họ này đã tham gia vào tổ chức của Phường Đúc. Từ những lò đúc đồng tư nhân của con cháu hai dòng họ Nguyễn trên, Phường Đúc ngày càng phát triển, thu hút thêm các dòng họ khác và hoạt động mãi cho đến tận ngày hôm nay. 6. Một số làng đúc đồng khác. Ở đồng bằng sông Hồng, ngoài những trung tâm đúc đồng nổi tiếng, nay thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên và Hà Nội, cũng còn một số làng đúc đồng khác như làng An Lộc, thuộc Thái Bình,… Và dọc theo sự phát triển của đất nước về phía Nam, chúng ta luôn gặp những làng đúc đồng nổi tiếng trong vùng. Có thể kể đến như Thanh Hóa là một trung tâm của văn hóa Đông Sơn, giai đoạn thịnh đạt nhất của thời đại đồ đồng và sắt sớm, mà tiêu biểu là các trống đồng Đông Sơn đạt đỉnh cao cả về kỹ thuật đúc và nghệ thuật trang trí. Trống đồng chẳng những đã trở thành biểu tượng của văn minh văn hóa cổ xưa của Việt Nam, mà đã đi vào tín ngưỡng dân tộc với việc thờ Thần Trống Đồng, có tên chữ Hán là Thần Đồng Cổ. Thanh Hóa vốn có đền Đồng Cổ gốc ở Đan Nê, thần từng hiện lên giúp sự nghiệp dựng nước và giữ nước, được nhà Lý rước về Thăng Long lập đền thờ ở phía Nam hồ Tây, để bảo vệ kinh thành, và chứng kiến hội thề hàng năm của các quan lại. Như vậy, hẳn Thanh Hóa phải là một trung tâm đúc đồng nổi tiếng từ rất xa xưa, mà nay vẫn còn một số làng đúc đồng khác Trà Đông, Đại Bái,… Trà Đông có tên nôm là Kẻ Chè, thuộc xã Thiện Trang, huyện Đông Sơn. Nhân dân truyền rằng, có hai ông họ Vũ giỏi nghề đúc đồng. Trong đó, một ông tên Vũ Đạo, đã đi khắp nơi, đến đây thấy đất có thể làm khuôn đúc tốt, đã ở lại lập nghiệp, về sau con cháu nối đời làm nghề đúc. Vì thế, ca dao địa phương có câu “Đất họ Lê, nghề họ Vũ”. Không xa trung tâm trên mấy, là làng Đại Bái thuộc huyện Thiệu Hóa, cũng nổi tiếng đúc đồng. Ký ức của nhiều người cho rằng, tổ tiên của họ có thể là những thợ đúc đồng làng Đại Bái, thuộc Hà Bắc đi vào đây lập làng mới, và vẫn giữ nguyên tên cũ. Cũng có thể có một hướng phát triển ngược lại chăng? Dù sao, hai làng cùng nghề cùng tên ở hai tỉnh xa lạ nhau, có một quan hệ thân thuộc. Từ địa bàn trung chuyển Thanh Hóa, vào Nam có làng đúc đồng Diễn Tháp ở Nghệ An, Thanh Lam ở Hà Tĩnh, rồi Phan Xá và Hoàng Giang ở Quảng Bình, Cam Lộ ở Quảng Trị, Phước Kiên ở Quảng Nam,… Đến năm 1907, thực dân Pháp còn mở ở Biên Hòa một trường Mỹ nghệ đồ gốm và đúc đồng. Như vậy, nghề đúc đồng vừa có bề dày lịch sử từ xa xưa truyền mãi đến ngày nay, vừa có một bề rộng không gian trên cả nước, từ đồng bằng sông Hồng vào tận đồng bằng sông Cửu Long. Trên lộ trình lịch sử ấy, mặc dầu những thành tựu đúc đồng của quá khứ đã đạt trình độ tuyệt hảo, song các nghệ nhân xưa luôn nghĩ đến một sự cải tiến không ngừng. Ở Đại Bái Bắc Ninh còn đôi câu đối ngắn mà thật hàm súc là “Công đại tiên khai. Nghiệp tùy hậu thế”. Tạm dịch Công lớn mở nghề thuộc về người trước, nối nghiệp ra sao lại do các thế hệ đời sau. Như thế, đòi hỏi một sự sáng tạo không ngừng và một ý thức truyền nghề mở rộng. Chu Quang Trứ Xem thêm bài viết Nghề đúc đồng là một nghệ thuật điêu khắc đồng khá phức tạp Bạn đang xem bài viết Trở lại tổ nghề đúc đồng và những trung tâm đúc đồng Link
Đồng gắn bó với nhân dân ta trong suốt trường kỳ lịch sử. Nó là chất kim loại quý được lấy làm bản vị của các giá trị trao đổi từ xa xưa cho đến tận gần đây. Trống đồng Đông Sơn của người Việt cổAn Nam tứ đại khí là gì?Cửu vị thần công là gì?Cửu đỉnh thần công là gì? Được xem là kim thoại thiêng để đúc tượng thờ, và nhiều đồ tế khí. Tuy nhiên, cũng lại gắn với sinh hoạt đời thường của mọi người. Dù sử dụng dưới góc độ nào, thì đồng thường được pha chế thành thỏi rồi gò dát, có khi sau đó còn gia công khắc rạch thêm. Với quy trình đúc, nghệ thuật điêu khắc đồng khá phức tạp, song có thể vượt lên những phá hoại của thời gian, là chất liệu đích thực của điêu khắc. Chính vì vậy, chúng ta cùng đi khám phá những thành tựu đúng đồng trong lịch sử như thế nào? Đồ đồng có bề dày lịch sử chỉ đứng sau các đồ đá, tre, gỗ, và gồm. Ở nước ta, đồng tham gia vào thế giới gỗ – gốm – đá từ 4000 năm trước. Chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên phân bố trong lưu vực sông Hồng, đã có những hoạt động chế tác đồng, còn để lại bằng chứng ở các di chỉ khảo cổ học. Chẳng hạn, di chỉ Gò Bông Phú Thọ đã tìm thấy những cục đồng, xỉ đồng chứng tỏ người Phùng Nguyên đã luyện kim tại chỗ, và phân tích thành phần các cục đồng gồm đồng và thiếc, chứng tỏ họ đã biết tạo ra hợp kim đồng thau. Tuy nhiên, nếu ở văn hóa Phùng Nguyên đồ đồng chưa lấn được thế lực của công cụ đá, nhưng nó đã bắt đầu cội nguồn của văn minh sông Hồng, thì sang giai đoạn văn hóa Đồng Đậu kế tiếp. Ở các di vật đã biểu hiện một sự kết thừa, nâng cao, đổi mới, thì đồ đồng đã khá phổ biến, chiếm khoảng ⅕ số công cụ và vũ khí với nhiều loại hình phong phú như rìu, dũa, lưỡi câu, mũi lao, mũi tên,… Quan trọng nữa là còn tìm được những khuôn đúc đồng bằng đá, bằng đất, có khuôn đúc một hiện vật, có cả khuôn cùng một lúc đúc nhiều hiện vật, tất cả đã khẳng định sự phát triển của kỹ thuật luyện kim đồng thau là đặc trưng quan trọng của văn hóa Đồng Đậu. Chuyển sang giai đoạn Gò Mun, cùng với nhiều hướng giảm sút của đồ đá về cả số lượng, loại hình, thì đồ đồng thau phát triển mạnh, chiếm ưu thế với tỷ lệ hơn 50% tổng số công cụ và vũ khí, mà bên cạnh những loại hình đã có còn sáng tạo thêm được rìu lưỡi xéo, dùng đồng làm cả đồ trang sức như vòng tay. Việc tìm ra, khẳng định các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun là cống hiến quan trọng của giới khảo cổ học Việt Nam. Nó đã nối liền trực tiếp và liên tục từ thời đại đồ đá mới đến văn hóa Đông Sơn rực rỡ, khiến các học giả phương Tây phải choáng ngợp mà hoài nghi nguồn gốc. Ở đây, dưới góc độ đồ đồng, các giai đoạn trước đã chuẩn bị đầy đủ, đến văn hóa Đông Sơn thì đồ đồng đạt đến mức hoàn hảo cả về kỹ thuật và nghệ thuật. Cho đến văn hóa Đông Sơn, đồ đá phần lớn chỉ còn để trang sức, đồ gốm nặng ý nghĩa thực dụng, tất cả bị đẩy lùi về phía sau đồ đồng. Ngày nay, chúng ta có bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn, gồm 60 loại hình phong phú, độc đáo với số lượng lớn, kích thước rất khác nhau. Có công cụ sản xuất trong nông nghiệp và trong thủ công nghiệp, có vũ khí đánh gần, đánh xa và phương tiện phòng vệ, có nhiều dụng cụ gia đình, đồ trang sức, nhạc khí và tượng nghệ thuật. Các loại hiện vật trên, chẳng những có nhiều loại kiểu dáng khác nhau, mà còn có trang trí đẹp, đòi hỏi người thợ thủ công cũng là nghệ nhân dân gian. Do đó, ngoài giá trị thực dụng, còn có giá trị nghệ thuật cao. Nổi trội lên ở văn hóa Đông Sơn, trở thành biểu trưng của văn minh sông Hồng, là trống đồng Đông Sơn được phân bố trên một địa bàn rộng lớn của vùng Đông Nam Á. Trong đó, riêng Việt Nam cho đến năm 1980 có 169 chiếc gồm 91 chiếc loại lớn và trung bình, và 78 chiếc trống minh khí. Các nhà sử học Việt Nam, đã khẳng định “miền Bắc Việt Nam được coi là một trung tâm xuất hiện và truyền bá sớm của trống đồng Đông Sơn”. Trống đồng Đông Sơn của người Việt cổ Trống đồng Đông Sơn cả về kỹ thuật đúc, nghệ thuật tạo dáng, trang trí là sáng tạo tuyệt vời của người Việt cổ. Trong đó, những hình trang trí phủ đầy bề ngoài trống, đã phản ánh trung thực con người, đương thời trong các hoạt động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, vui chơi, tín ngưỡng, và cả nhiều sinh vật gắn bó với con người. Do đó, đồng trước giai đoạn Đông Sơn chủ yếu là công cụ và vũ khí yêu cầu có độ cứng, độ sắc cao, nên hợp kim đồng thay có tỷ lệ đồng là 80% đến 90%, thiếc từ 10% đến 20%, còn hàm lượng chì rất thấp chỉ 0,01% đến 0,4% ngang với tỷ lệ vài tạp chất. Sang giai đoạn Đông Sơn, do đồng thau được dùng phổ biến, để đúc nhiều hiện vật mang tính nghệ thuật, người Đông Sơn đã biết giảm tỷ lệ đồng và thiếc, để tăng hợp kim đồng – thiếc – chì có độ dẻo, dễ điền đầy các chi tiết của khuôn đúc. Các di chỉ văn hóa Đông Sơn còn cung cấp cho ta một số nồi nấu đồng, khuôn đúc rìu, dao găm, giáo, chuông,… có cấu tạo khuôn, kỹ thuật làm khuôn chứng tỏ người thợ đúc đồng đương thời. Có đôi mắt bằng ngọc, đôi tay bằng vàng, mà còn có hiểu biết sâu sắc về kỹ thuật luyện kim, tạo được những lò nấu đồng chịu đựng được nhiệt độ rất cao 1400 độ C. Từ thế kỷ II trước Công nguyên, đất nước ta bị Bắc thuộc, cũng là lúc văn hóa Đông Sơn tiếp xúc với văn hóa Hán, nhưng vẫn còn giữ được trong vài thế kỷ. Cụ thể, ở nghề đúc đồng, trống đồng vẫn được đúc. Song, đã cải biên hay trá hình chậu úp, đồng thường được dùng để đúc những dụng cụ gia đình, những đồ tế tự, và những mặt hàng mỹ nghệ. Câu chuyện Mã Viện, sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đã lùng tìm thấy rất nhiều trống đồng, và phá ra lấy đồng đúc ngựa tốt dâng vua Hán, chứng tỏ nghề đúc đồng thời đó vẫn ở một trình độ cao. Để kìm hãm, thậm chí nhằm phá hoại sâu xa thủ công nghiệp nước ta, thái thú Giao Chỉ là Tôn Tú, đã lùng bắt hàng nghìn thợ giỏi ta, đưa về Giang Đông dâng vua Ngô, để xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp, chắc hẳn trong đó, có những người thợ đúc đồng tài ba của nước ta. Theo Chu Khứ Phi, các thời Đường, thời Tống, và thời Nam Tống, bọn đô hộ phương Bắc, trong khi vơ vét tài nguyên nước ta, đã kéo bễ đỏ cả núi. Chắc chắn trong đó, có việc khai mỏ và đúc đồng, cùng phản ánh chính sách của bọn đô hộ, vừa kìm hãm vừa nuôi dưỡng ở mức nhất định, để khai thác đối với nghề đúc đồng của nước ta, mà bằng chứng cụ thể là quả chuông Thanh Mai mới được phát hiện năm 1986. Quả chuông này, được tìm thấy ở dưới độ sâu 3m5 trong bãi sa bồi ven sông Đáy, thuộc xã Thanh Mai huyện Thanh Trì – Hà Tây, có hình dáng giống như các quả chuông cổ Việt Nam còn thấy đúc từ thời Trần về sau, nhưng miệng thẳng chứ không loe ngang. Quai chuông đã làm thành đôi rồng, đấu lưng vào nhau uốn cong lên, thân chuông có những nhóm chỉ nối ngang và dọc, chia mặt chuông làm 4 ô trên và 4 ô dưới, để khắc bài văn có hai núm gỗ hình tròn, với 10 cánh hoa bao quanh. Bài văn chuông cho biết chuông được đúc năm Mậu Dần, hiệu Trinh Nguyên thứ 14, tức năm 798, nặng 90 cân Nam nay cân được 46kg, thân chuông cao 52cm, quai chuông cao 8cm. Chuông do Hội Tùy Hỉ của những người Hoa và những người Việt cùng đúc. Đây là một thành tựu xuất sắc của kỹ thuật đúc đồng ở thế kỷ VIII. Cách tạo dáng, cấu trúc và độ dày của hợp kim đồng thau, làm cho chuông có âm hưởng ngân vang, phù hợp với âm thanh của các lễ cầu nguyện như chính bài minh ghi rõ “Hồi tâm dụng phúc. Cùng tạo minh chung. Trời xa ứng nghiệm. Địa ngục tường minh. Tam đồ hết khổ. Bát nạn tiêu khuynh. Thân nay giả hữu. Muôn kiếp lưu danh. Cận kề Phật pháp. m hưởng cùng vang. Công danh xin gửi. Bất diệt vô sinh”. Trên cơ sở nguồn gốc sâu xa, từ văn hóa Phùng Nguyên và đỉnh cao ở văn hóa Đông Sơn, nghề thủ công được tồn tại khéo léo trong nghìn năm Bắc thuộc, không những về kỹ thuật, mà còn trở thành một chỗ dựa tinh thần, để bảo tồn văn hóa dân tộc. Trống đồng được xem như vị thần bản mệnh của dân tộc, được dân gian lập đền thờ. Trong đó, có đền Đồng Cổ đền Trống Đồng ở Đan Nê Thanh Hóa. Cho đến khi đất nước độc lập, nhà Lý đã rước thần trống đồng từ Đan Nê về Thăng Long, lập đền Đồng Cổ ở Bưởi để hàng năm triều đình đến tổ chức ăn thề. Nâng cao địa vị thần Trống Đồng lên tột đỉnh, nhà Lý cũng đồng thời phục hưng lại nghệ thuật đúc đồng. Đưa kỹ thuật đúc đồng lên một đỉnh cao mới, xây dựng những truyền thuyết và lịch sử hóa truyền thuyết về việc tổ đúc đồng, và những kỳ quan đồ uống. Để gây ấn tượng đậm, và niềm tin sâu, không chỉ ở đương thời mà truyền mãi về sau. Về ý định này, thực sự nhà Lý đã thành công, và nhờ đó mà đồ đồng, đã có một cuộc sống thần kỳ ở cả chính sử và dã sử. Sử sách còn ghi nhận nhiều lần đúc đồng, tạo ra những khí vật lớn và thiêng. Năm 1031, đúc chuông chùa Long Trì nặng 10,000 cân đồng, năm 1035 đúc chuông chùa Trung Quang nặng 6,000 cân đồng, năm 1041 phát 7,500 cân đồng để đúc tượng Phật, hai vị Bồ Tát và chuông lớn ở Viện Từ Thị Thiên Phúc, năm 1056 phát 12,000 đồng đúc chuông chùa Sùng Khánh Bảo Thiên,… Trong khí vật là chuông, thì nổi lên yêu cầu về tiếng phải vang ngân, người thợ đúc đồng đã khám phá ra một công thức hợp kim, là pha thêm kim loại quý vào để đúc phần vú chuông. Vì thế, năm đầu của vương triều mình, nhà Lý đã phát 1,680 lạng bạc để pha đúc chuông chùa Đại Giáo, năm 1014 phát 310 lạng vàng để pha đúc chuông chùa Hưng Thiên, và phát 800 lạng bạc để pha đúc chuông chùa Thắng Nghiêm,… Việc khai thác mỏ đồng, cũng được sử sách xác nhận. Chẳng hạn, từ năm 1198, tổ chức khai thác mỏ đồng lục ở Lạng Châu. Ký ức nhiều người còn ghi đậm truyền thuyết đã lịch sử hóa về ông Tổ đúc đồng, gắn liền với kỳ quan Tứ Đại Khí. Gạt đi những chi tiết thần kỳ về việc tu luyện và chữa bệnh, chỉ riêng ở phạm vi đúc đồng, thì mỗi nơi kể đều địa phương hóa để tự hào, nhưng cái chung là. Vào thời Lý, sư Không Lộ mang một cái túi nhỏ sang Trung Quốc quyên giáo đồng, được vua Trung Quốc cho vào kho, sư bèn làm phép thu tất cả đồng vào túi rồi tìm cách về nước. Về nước, sư đúc một quả chuông lớn, khi đúc xong đánh thử, tiếng vang truyền sang tận Trung Quốc khiến con trâu vàng ở kho tưởng mẹ gọi bèn lồng sang ta. Sợ tiếng chuông làm các nước mất hết vàng, sẽ gây thù oán với ta, sư bèn vất chuông xuống hồ nước, trâu vàng cũng xuống hồ theo. Số đồng còn lại, sư cho đúc bốn khí vật lớn là chuông Quy Điền, tháp Bảo Thiên, Phật chùa Quỳnh Lâm và vạc chùa Phổ Minh. An Nam tứ đại khí là gì? An Nam Tứ Đại Khí là một trong bốn bảo vật quốc bảo, kỳ quan của văn hóa thời Lý và thời Trần với bốn công trình nghệ thuật bằng đồng tinh xảo và điêu luyện. Cả bốn khí vật này, đều đã mất từ lâu. Trong đó, hai khí vật ở Thăng Long chuông Quy Điền và tháp Bảo Thiên được gán cho quân Minh phá năm 1426, để lấy đồng đúc vũ khí chống lại nghĩa quân Lam Sơn. Nhưng… truyền thuyết kết hợp với sử sách và văn bia còn xác nhận. – Chuông Quy Điền. Chùa Một Cột xây năm 1049, đến năm 1101 nhân sửa chùa, có đúc một quả chuông lớn. Chuông đúc xong nặng không thể treo lên được, bèn để ở ruộng nước có nhiều rùa, nhân đó thành tên chuông Quy Điền. – Tháp Bảo Thiên. Chùa Bảo Thiên xây bên cạnh hồ Lục Thủy hồ Hoàn Kiếm ngày nay vào năm 1056, năm sau tại sân chùa xây cây tháp Đại Thắng Tư Thiên cao vài mươi trượng. Gồm 12 tầng, tầng dưới bằng đá, các tầng trên bằng đồng, trên đỉnh tháp có tượng tiên nữ bưng mâm ngọc, hứng móc ngọt. Cho đến đời Tây Sơn, còn thấy nền tháp với một số tượng đá đẹp. – Phật chùa Quỳnh Lâm. Chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, có tượng Phật Di Lặc cao 6 trượng, đặt trong tòa điện cao 7 trượng, đứng xa mười dặm còn trông thấy rõ. – Vạc Phổ Minh. Chùa Phổ Minh ở Nam Định có chiếc vạc mà hai người chạy đuổi nhau trên miệng được. Có tài liệu nói, vạc này sâu 4 thước, rộng hơn 10 thước, và nặng 6,150 cân. Thời Trần sử sách ít nói đến đồ đồng, nhưng việc sử dụng rộng rãi trống đồng trong các lễ nghi long trọng, và tác dụng lớn lao của tiếng trống đồng đã được xác nhận chắc chắn. Đời vua Trần Nhân Tông 1270-1293 trong cuộc đón sứ nhà Nguyên, đã cho đánh trống đồng giữa những hàng lính cầm gươm giáo sáng lóa, khiến sứ giả Trần Cương Trung phải run sợ thú nhận “Kim qua ảnh lý đan tâm khổ. Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh” Dịch nghĩa Thấy gươm sắt lóe sáng lòng đau khổ. Nghe tiếng trống đồng sợ bạc cả đầu. Tiếng trống đồng đón sứ Nguyên thế nào không rõ, nhưng đền thờ thần Trống Đồng ở Đan Nê còn có biển ghi rõ “Treo lên đánh thấy tiếng giống tiếng trống mà mạnh hơn, giống tiếng chuông mà ngân, giống tiếng khánh mà êm”. Và chắc chắn, là một số hiện vật bằng đồng của thời Trần đã được phát hiện. Đó là đôi vòng để mắc cáng? và đôi bàn đạp yên ngựa tìm thấy trong mộ vua Trần ở Yên Sinh, được đúc khéo, trang trí đẹp với hình rồng, điển hình của nghệ thuật thời Trần. Và đặc biệt, là quả chuông ở những ngôi chùa thuộc vùng biên giới ba phía của đất nước. Chuông chùa Bình Lâm ở Cao Bằng, đúc năm Ất Mùi, niên hiệu Hưng Long, tức năm 1295, được phát hiện năm 1978, chuông chùa Vân Bản ở Hải Phòng, được vớt ở vùng biển Đồ Sơn năm 1958, và chuông chùa Rối ở Hà Tĩnh phát hiện năm 1990. Hai quả chuông sau tuy không ghi niên đại, nhưng với kiểu dáng hoa văn trang trí và một số quan tước cùng tên người, chắc chắn thuộc cuối thời Trần. Những quả chuông này, dù tìm thấy ở dưới nước biển chuông chùa Vân Bản hay trong lòng đất chuông chùa Rối. Đều không bị sự phá hoại của môi trường, chứng tỏ một kỹ thuật luyện kim cao, tất cả đều thuộc loại chuông lớn, với kiểu dáng ổn định khá giống nhau. Có thể lấy chuông chùa Vân Bản để xem xét. Chuông cao 1,27m cả quai, miệng rộng 0,74m, dáng phát triển từ chuông Thanh Mai, với sáng tạo là miệng loe hình cánh sen và có 6 núm đánh, con rồng ở quai treo vẫn còn mào lửa, nhưng văn dạng chữ S vốn không thể thiếu ở rồng thời Lý thì nay, chỉ còn ở một má. Văn chuông cho nhiều tài liệu quý về xã hội đương thời. Thời Lê sơ hiện vật đồng còn lại ít, cơ bản là những đồng tiền đồng vốn đã có từ thời Đinh, mà sau đấy tất cả các nhà nước quân chủ độc lập của nước ta, đều cho đúc và lưu hành rộng rãi. Thời Mạc, ngoài tiền còn có hai quả chuông đồng lớn cao 1,55 mét và 1,75 mét ở chùa Viên Minh tức chùa Đà Quận thuộc tỉnh Cao Bằng, đúc năm Tân Hợi, niên hiệu Kiền Thống 19, tức năm 1611, dáng cơ bản gần chuông thời Trần. Song, kỹ thuật đúc do có thêm nhiều sắt trong hợp kim, nên có màu gần với gang và mặt bị sần oxide hóa. Sang thời Lê Trung Hưng, dù năm 1776, khi chiếm được Đàng Trong, nhà nước Lê – Trịnh đã cho phá những súng đồng nòng rộng không dùng được, những đồ đồng nặng không mang đi được, những đỉnh to vạc lớn nặng 700 cân đến 800 cân trở xuống,… lấy được của chúa Nguyễn để đúc tiền. Và ở Đàng Ngoài, sau lần thu vét đồng năm 1740 của vua Lê Cảnh Hưng. Năm 1786, vua Lê Chiêu Thống theo lời tâu của Nguyễn Hữu Chỉnh lại cho thu vét chuông đồng, tượng đồng ở các chùa đền, để lấy đồng đúc tiền. Với những hành động trên, chắc chắn rất nhiều khí vật quý bằng đồng đã bị thu phá, để đúc thành tiền. Thế nhưng, chẳng những một số đồ đồng của thời Mạc trở về trước. Ngày nay vẫn còn, mà cũng còn giữ được khá nhiều đồ đồng của thời Lê Trung Hưng kể cả ở Đàng Trong, từ những hiện vật nhỏ như đồng tiền, đến những hiện vật lớn và rất lớn là tượng, chuông và vạc. Nổi trội lên trong nghệ thuật đúc đồng thời Lê là tượng Trấn Vũ ở đền Quan Thánh Hà Nội bằng đồng hun đúc năm Vĩnh Trị 2 1677 cao khoảng 9 thước 3m72 nặng 6,600 cân 4,000 kg. Thể hiện một vị thần là đạo sĩ ngồi xõa tóc, chân để trần, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm, thân gươm có rắn quấn, và chống lên lưng rùa. Tượng Trấn Vũ chẳng những là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, mà về kỹ thuật đúc đồng đã đánh dấu một đỉnh cao. Chính vì thế, mà tác giả của pho tượng đồng này là nghệ nhân Trùm Trọng, cũng được tạc tượng đá cao bằng người thực, và để thờ trong khám ở sát hồi tường bên trái của tòa điện chính. Đó là sự tôn vinh cao nhất đối với người nghệ nhân. Đàng Trong là vùng đất mới, các chúa Nguyễn khi vào trấn thủ đã tìm mọi cách thu hút dân ngoài Bắc vào theo. Trong đó, có những người thợ đúc tài giỏi, và trong mưu đồ cát cứ đã xây dựng một số công trình, để khẳng định quyền lực của mình. Dưới góc độ nghề đúc đồng, các chúa Nguyễn ở từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII đã để lại những vạc, chuông rất đặc sắc, hiện còn một số ở Huế. Hiện còn giữ được 10 chiếc vạc lớn đều đúc ở thế kỷ XVII. Trong đó, nổi lên hai chiếc vạc ở sân trước các nhà Tả vu và Hữu vu trong Đại Nội, đúc vào các năm 1660 và 1662, cao 1m5, cả quai cao 1m3, miệng rộng 2m22, chu vi gần 6m, nặng xấp xỉ nhau, chiếc lớn nhất là 2582 cân, dáng thành đứng miệng loe. Mặt ngoài thân chia ra các dải ngang. Trong đó, lại chia ô, mỗi ô là một hình trang trí hoa lá và nhất là chim thú hầu hết chuyển động ngược chiều kim đồng hồ là chuyển động thuận đã được xác định từ trống đồng Đông Sơn. Chuông đồng ở Đàng Trong không nhiều như ở Đàng Ngoài. Song, lại có quả chuông to nhất và rất đặc sắc ở chùa Thiên Mụ, được gọi là Đại Hồng Chung đúc năm 1710, thân cao 1m9 nếu kể cả bồ lao treo là 2m47, miệng rộng 1m42, chu vi thân 3m61, nặng 3,285 cân 8 lạng 2,052 kg. Với nhiều hình trang trí đẹp gồm rồng, mây, tinh tú, và bát quái, được đúc rất mịn, tiếng vang ngân chứng tỏ một kỹ thuật luyện kim đồng thau đạt tới đỉnh cao. Những vạc và chuông lớn này, đã vượt lên trên lệnh phá năm 1740, và 1776 của nhà Lê – Trịnh. Do lệnh thu vét đồng của vua Lê Cảnh Hưng và vua Lê Chiêu Thống, nhiều chùa ở ngoài Bắc đã bị mất chuông, khi nhà Tây Sơn lên đã cố gắng khắc phục, nhất là trong thời Cảnh Thịnh, khắp nơi tổ chức đúc lại chuông chùa, quán. Ngày nay, tuy chưa tổ chức điều tra tổng thể, nhưng chúng tôi cũng nắm được sơ yếu lý lịch của gần trăm quả chuông thời Tây Sơn, phần lớn cao trên 1m20, một số quả cao tới 1m50, có quả cao tới 1m74 như chuông chùa Thầy Hà Tây. Được tạo dáng đẹp với tỷ lệ chiều cao thường gấp đôi chiều rộng, bồ lao treo là hai hoặc một con rồng hoàn chỉnh. Những quả chuông này, chẳng những quý mà còn là vật thiêng thông truyền sự giác ngộ, như bài văn chuông chùa Bộc Hà Nội vốn đúc năm 1795 sau đúc và khắc lại ở thời Nguyễn. “Từng nghe Dường như không mà lại có, đạo do phương tiện mà hình ra được. Có lòng mộ cảm tất thông được với đạo, âm thanh vang vọng rất xa. Công đức nhỏ có thông báo nhỏ, công đức lớn có thông báo lớn. Còn đối với chuông gõ nhỏ thì kêu nhỏ, gõ mạnh thì tất kêu to,… Phật vốn nhìn vào mà không thấy, còn có chuông thì nhìn thấy cái cần thấy. Phật vốn là nghe mà không nghe thấy, còn có chuông thì nghe được cái cần nghe,… Ở chốn chùa chiền có tiếng chuông làm cho người ta được như ở trên trời, được nghe tiếng sáo vang vọng không trung. m thanh của chuông không bao giờ dứt. Phật cũng không thể bị tắt chìm đi. Tuy vậy, cái ẩn náu ở cái không thì khó, mà biết được thế nào, còn cái được thể hiện ở cái có thì là cái nhìn và cái nghe được chăng?” Nghề đúc đồng để lại nhiều thành tựu xuất sắc ở thời Nguyễn. Mặc dù, năm 1813, vua Gia Long cấm nhân dân Bắc Kỳ xây dựng chùa quán cùng với việc đúc tượng và đúc chuông. Nhưng nhiều nơi nhân dân vẫn đúc chuông. Trong đó, tiêu biểu là quả chuông chùa Bút Tháp Bắc Ninh đúc năm 1815, cao tới 1m52, miệng rộng 0m71. Các đời vua sau đó, càng đúc nhiều chuông, hầu hết chuông đời Tự Đức là loại chuông lớn, như chuông chùa làng Chèm Hà Nội đúc năm 1878, cao 1m41, miệng rộng 0m68. Nhưng… thành tựu đúc đồng thời Nguyễn, nổi trội vẫn là ở Huế, mà tiêu biểu là các bộ cửu vị thần công và cửu đỉnh. Cửu vị thần công là gì? Cửu vị thần công là chín khẩu đại bác lớn, được đặt tên là Xuân Hạ Thu Đông và Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, đều được triều đình Huế phong là Thần Uy Vô Địch Thượng Tướng Công. Từng khẩu đều dài tới 5m10 và nặng trung bình tới 17,500 cân, thân súng được chạm tỉ mỉ hoa lá, còn khắc rõ danh hiệu, vị thứ, trọng lượng, cách sử dụng và niên đại Bính Tý năm Gia Long 15, tức 1816. Bộ cửu vị thần công này, là những khí vật bằng đồng khổng lồ hiện còn. Nhưng đúc hoàn hảo cả về kỹ thuật và nghệ thuật, được mọi người quan tâm đến nhiều hơn cả, lại là bộ cửu đỉnh. Cửu đỉnh thần công là gì? Cửu đỉnh thần công là chính chiếc đỉnh, đặt ở sân Thế Miếu, mang các tên Cao – Nhân – Chương – Anh – Nghị – Thuần – Tuyên – Du – Huyền muốn biểu hiện một vòng lịch đại đầy đủ. Trong đó, Cao là thế hệ khởi đầu và Huyền là thế hệ truyền nối xa nhất. Tất cả đều ghi rõ đúc năm Ất Mùi, niên hiệu Minh Mạng 16, tức 1835. Dáng chung của các đỉnh như một lư hương tròn có ba chân cao, bề thế, được xem như tác phẩm điêu khắc hoành tráng. Xung quanh bầu đỉnh còn nổi một mảng tên đỉnh, và 17 mảng các hình chạm nổi về cảnh trí đất nước, tinh tú, hiện tượng thiên nhiên, và các sinh vật xem như những phù điêu treo xung quanh đỉnh. Từng chiếc, trọng lượng, kích thước có xê dịch, nặng từ 3,201 cân đến 4,307 cân, và cao từ 2m31 đến 2m5 cả quai, chu vi bầu từ 5m5 đến 5m7. Đã có nhiều người bàn đến kỹ thuật đúc đỉnh, với những hình chạm nổi. Xu hướng chung cho là đúc liền khuôn, và như thế việc làm khuôn đúc khá phức tạp, được giải quyết mỹ mãn. Sang thế kỷ chúng ta, để khai thác nghề đúc đồng cổ truyền. Ngay từ năm 1907, chính quyền thực dân Pháp đã mở trường Mỹ Nghệ Đồ Gốm và Đúc Đồng ở Biên Hòa. Nhưng thành tựu nổi trội về nghề đúc đồng, vẫn nằm ở trong dân gian và ở ngoài Bắc. Tuy mục đích chính của nghề đúc đồng bây giờ không phải làm cho Nhà nước, hay cho các điện thờ tôn giáo, mà là làm những đồ gia dụng của nhân dân với kích thước nhỏ. Song, khi cần đúc những tác phẩm nghệ thuật lớn, các nghệ nhân đúc đồng vẫn có thể thực hiện thành công tốt đẹp nhất. Điển hình là việc nhân dân phường đúc đồng Ngũ Xã Hà Nội đã đúc cho chùa Làng Minh, pho tượng Phật A Di Đà vào năm 1952, cao 3m95, chu vi 11m6, hai đầu gối cách nhau 3m60. Riêng tượng nặng 12,300 kg tương đương 19,680 cân. Ngoài ra, còn đài sen để đặt tượng có 96 cánh nặng 1600kg đồng nữa tương đương 2560 cân. Như vậy, cả tượng và đài sen đều bằng đồng, nặng 22,240 cân đồng, vượt xa mọi khí vật cổ truyền hiện còn. Thành tựu của nghề đúc đồng Việt Nam, suốt chiều dài lịch sử 4,000 năm dựng nước, còn để lại đến nay chỉ một phần. Song, thật đáng ngạc nhiên. Trên cơ sở ấy, chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở triển vọng nghề đúc đồng ngày nay. Chu Quang Trứ Xem thêm bài viết Giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa nghề thủ công nghệ thuật Bạn đang xem bài viết Nghề đúc đồng là một nghệ thuật điêu khắc đồng khá phức tạp Link
Your browser does not support the audio element. Nghề đúc đồng vốn xuất hiện từ rất sớm cho nên đã có một lịch sử đầy thăng trầm cùng với lịch sử của dân tộc. Dù vậy, nghề đúc đồng Việt Nam cho đến nay vẫn được lưu giữ và bảo tồn. Rất có thể bạn sẽ là một nghệ nhân, một người khai phá ra những con đường mới để nghề phát triển vượt trội hơn nữa, mang lại không giữ gìn bản sắc trong nét đẹp văn hóa dân gian mà còn tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động từ một công việc bước ra từ truyền thống. Việc làm Lao động phổ thông1. “Bước đi thăng trầm” của nghề đúc đồng Việt Nam Nghề đúc đồng - Bước ra từ “hoàng kim”… Chẳng biết chính xác nghề đúc đồng nước ta ra đời tự bao giờ nhưng những dấu ấn để lại cho đến ngày này cho biết, nghề có tuổi đơn hơn 4 nghìn năm, khởi nguồn từ thời Phùng Nguyên trong lịch sử, sau đó phát triển hưng thịnh vào thời Đông Sơn, tức thời kỳ của các vua Hùng. Các chứng tích mang đậm dấu ấn thời gian thể hiện trên các sản phẩm đồ đồng cho tới ngày nay có thể kể tới như trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ,… Nghề đúc đồng làm gì? Các sản phẩm đồ đồng qua kỹ thuật đúc ngày càng trở nên phong phú, đa dạng về loại hình và kiểu dáng. Đường nét chạm khắc, kỹ thuật tạo dáng ngày càng trở nên tinh tế. Các thợ đúc đồng lành nghề qua các đời đã dần phát triển, đưa nghề truyền thống này bước lên những đỉnh cao mới. Trên khắp cả nước đều có sự hiện diện của nghề đúc đồng với các mức độ phát triển khác nhau, trong đó, những địa phương được cho là nổi tiếng với nghề tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc với những làng nghề vô cùng nổi tiếng có thể kể tới như Đông Mai Hưng Yên, Ngũ Xá Hà Nội, Đại Bái Bắc Ninh cùng nhiều cái tên khác thuộc nhiều tỉnh thành Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên – Huế,… … Đến sự “va chạm” với nền kinh tế thị trường Chỉ vài thập kỷ cách đây, khi các nguồn nguyên vật liệu mới đã ra đời từ trong lối sống hiện đại, nghề đúc đồng phải đối mặt với nhiều khó khăn cùng rất nhiều nghề truyền thống khác. Có thể nói, nhiều ngôi làng làm nghề nói rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng trong thế “mong manh trước gió” tưởng như có lúc phải đóng cửa. Thế nhưng, nền kinh tế dần đi vào bình ổn và không phát triển đơn phương, kèm theo đó có cả sự thăng hoa trong đời sống tinh thần bên cạnh sự ổn định về vật chất thì nghề đúc đồng dần tìm lại được một vị trí để phát triển. Thực trạng phát triển nghề đúc đồng Việt Nam Những nhu cầu về tâm linh, sắm sửa các sản phẩm thời tự hay các đồ vật trang trí bắt đầu được chú trọng mà nguyên liệu chính để làm nên chúng là đồng. Chính vì thế nghề đúc đồng truyền thống ngày nào vẫn còn tồn tại và có cơ may để tiếp tục phát triển. Thậm chí nhiều ngôi làng làm nghề đã liên kết với tốt với doanh nghiệp để xuất khẩu ra nước ngoài, vừa quảng bá một nét đẹp bản sắc của dân tộc vừa góp phần thúc đẩy kinh tế làng nghề nói riêng và nền kinh tế toàn quốc nói chung. 2. Con đường tương lai đầy triển vọng của nghề đúc đồng Trải qua những thăng trầm như vậy, không chắc nghề có thể “một lần thắm lại” thời hoàng kim thuở nào nhưng cũng được hết sức nâng niu, trân trọng và gìn giữ bởi những nghệ nhân yêu nghề. Nhờ đó, nghề đã tạo ra được công ăn việc làm cho rất nhiều người lao động, không thể tính chi tiết là bao nhiêu nhưng đó là con số hàng chục, hàng trăm ngàn người, đặc biệt là những người lao động phổ thông đến từ mọi miền tổ quốc. Thêm vào đó, nghề còn được phát triển theo những xu hướng mới, hiện đại hơn và có triển vọng hơn nữa nhờ các nghệ nhân trẻ. Dù được sinh ra ở thời đại mới, không trực tiếp đi theo tiến trình hình thành và phát triển của nghề đúc đồng nhưng thế hệ trẻ ngày này cũng không ít người có niềm đam mê khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, trong đó có nghề đúc đồng. Họ đã thổi vào hồn xưa những không khí mới mẻ, tạo sự hòa quyện độc đáo giữa hai màu sắc, hai vẻ đẹp truyền thống và hiện đại để rồi mang đến cái chất riêng cho mỗi sản phẩm được tạo ra từ công việc đúc đồng. Triển vọng của nghề đúc đồng Nhờ chịu khó nghiên cứu, tìm tòi các kỹ thuật công nghệ mới để đưa vào hoạt động sản xuất sản phẩm bằng đồng, các nghệ nhân không chỉ bảo vệ môi trường hiệu quả mà còn thúc đẩy việc đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá trị sản phẩm, thương hiệu đối với các sản phẩm đồng và khôi phục lại tên tuổi cho nhiều làng nghề vốn có tiếng từ thuở xưa. Ngoài ra, họ cũng đưa sản phẩm của nghề truyền thống đúc đồng tham gia vào nhiều chương trình, hoạt động về xúc tiến thương mại như hội chợ hay triển lãm, không chỉ trong nước mà còn ở cả thị trường quốc tế để giúp các sản phẩm đồ đồng đi vào trong dân, trở nên gần gũi với đời sống nhiều hơn. Họ còn áp dụng cả những hình thức quảng bá điện tử thông qua mạng internet, các kênh truyền thông trực tuyến để quảng bá hình ảnh, chất lượng sản phẩm, tích cực mở rộng thị trường và tìm kiếm những cơ hội phát triển cho nghề đúc đồng. 3. Hành trình tạo ra những sản phẩm đồng độc đáo Khám phá hành trình của mỗi sản phẩm đồ đồng, chúng ta sẽ hiểu được nghề đúc đồng làm những công việc cơ bản nào? Đây cũng sẽ là một nguồn thông tin quan trọng dành cho những ai đang có nhu cầu tìm việc làm tại một làng nghề đúc đồng truyền thống nào đó. Hãy cùng Bích Phượng khám phá sâu hơn về cơ hội việc làm của bạn với những nội dung bên dưới đây. Quá trình đúc đồng được tiến hành như thế nào? Sản phẩm đúc đồng là sản phẩm của cả tập thể, nếu như ở tất cả các khâu không có người thợ giỏi thì không thể nào tạo ra được những sản phẩm đồ đồng đẹp. Dù đã đi qua hàng ngàn năm lịch sử, trong khi đó đã có rất nhiều nghề thay đổi trước sự phát triển của công nghệ, khoa học thì với đúc đồng, đến nay nó vấn xứng với danhtruyền thốngbởi mọi phương thức của nghề vẫn được giữ nguyên vẹn như buổi sơ khai. Những công đoạn chính từ xưa đến nay vẫn vậy, có chăng cải biên một chút để trở nên phù hợp. Dựa vào công đoạn mà Phượng mô tả bên dưới đây sẽ giúp bạn có hình dung rõ ràng hơn về công việc của những người thợ đúc đồng. Nguyên liệu và mẫu Để đúc ra một sản phẩm đồng bất kì, chúng ta cần dựa trên mẫu, mẫu ở đây có thể là mẫu hiện vật hoặc mẫu ý tưởng. Nhiệm vụ của nghệ nhân đúc đồng đó là tạo ra sản phẩm thật giống với mẫu. Do đó, họ cần phải có khả năng liên tưởng, hình dung và sao chép để có thể đáp ứng được các yêu cầu được đưa cho từ khách hàng. Về mẫu, họ cần chọn và tạo mẫu bằng đất sét loại chuyên dụng, bằng thạch cao hoặc gỗ,… Sau đó họ đắp theo hình mẫu có sẵn và bắt đầu từ đây sẽ quyết định việc đường nét trong sản phẩm có tinh xảo hay không. Nếu mẫu ẩu thì không thể nào tạo được các sản phẩm tinh tế, đẹp mắt và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Công việc đúc đồng Cùng với việc tạo mẫu tỉ mỉ, hoàn hảo thì muốn sản phẩm chất lượng, nghệ nhân đúc đồng sẽ phải “căng não” để chọn ra chất liệu đồng tốt nhất. Vậy những tiêu chí nào được đem vào đánh giá chất liệu đồng? Đó là loại chất liệu sạch, chứa ít tạp chất. Trên thị trường ngày này có các loại nguyên liệu như bột đồng, vụn đồng,… khá thích hợp để đem vào sử dụng. Điều quan trọng tiếp theo là cân đo nguyên liệu sao cho phù hợp, các tỷ lệ hài hòa. Dạng nguyên liệu đồng đỏ hiện có giá cạnh tranh hơn đồng vàng, điều đó cho thấy rằng, lựa chọn chất liệu đồng đỏ sẽ giúp người đúc đồng tạo được sản phẩm ưng ý hơn. Tạo khuôn đúc sản phẩm Khi tạo khuôn, người đúc đồng sẽ trộn giữa nguyên liệu đất tốt với phụ gia lại với nhau để làm khuôn. Các phụ gia phổ biến như giấy gió và vỏ trấu sẽ cùng trộn vào trong đất sét và làm thành khuôn âm bản. Tiếp đến sử dụng đất bùn, chấu, loại bột có khả năng chịu nhiệt tốt để làm cốt làm thao Khuôn cần được phơi thật khô trong khoảng từ 10 tới 20 ngày, nếu nhanh thì sử dụng phương pháp công nghiệp nung ở mức 700 độ C rồi điều chỉnh mức độ mỏng dày theo yêu cầu. Công việc nung – nấu của thợ đúc đồng Khi đã có được khuôn đúc thì người thợ sẽ lau thật nhẵn nhụi và quét lên khuôn nước sơn chịu nhiệt. Công đoạn nung lại được tiếp tục lần thứ hai sau đó ghép các khuôn lại với nhau theo hình sản phẩm. Song song với lần nung khuôn này, người thợ sẽ thực hiện công việc nhóm lò để nấu đồng, để nhiệt độ nóng chảy ở độ C và canh đến khi đồng nóng chảy hoàn toàn sẽ phải pha thêm các tỷ lệ nguyên liệu đưa vào bao gồm có thiếc, kẽm và chì để đưa vào sản phẩm theo yêu cầu về tỷ lệ đặt ra ban đầu, tiếp tục nấu ở độ C. Các giai đoạn của nghề đúc đồng Đây là một quá trình dài và rất nhọc nhằn với 10 tiếng đồng hồ để có thể múc nước đồng đem đổ vào trong khuôn. Hai công đoạn song song này phải được tiến hành đồng thời và vừa khớp nhau sao cho khi đồng tan chảy hoàn toàn thì khuôn đúc cũng đã kịp nóng đỏ. Dường như rất khó để thực hiện nhưng phải ở trong nghề chúng ta mới hiểu và phải là nghệ nhân có tay nghề tốt mới có thể làm tốt điều này. Tùy từng loại sản phẩm sẽ có thời gian dỡ ra khỏi khuôn khác nhau và tiến đến công đoạn hoàn thành sản phẩm. Sản phẩm đồng được hoàn thiện như thế nào? Sau khi đã đủ điều kiện thì sản phẩm sẽ được đưa ra khỏi khuôn và để nguội hoàn toàn. Lúc này người thợ đúc đồng sẽ cần thực hiện các thao tác như mài nhẵn các góc cạnh, thực hiện chạm khắc thật khéo léo, đánh bóng sản phẩm và lên màu đúng yêu cầu về thẩm mỹ và yêu cầu đặc biệt của khách hàng nếu như sản phẩm đó được đặt trước. Như vậy, với một vài mô tả, có thể thấy nghề đúc đồng trải qua những công đoạn vô cùng vất vả và tốn rất nhiều thời gian mới cho ra lò sản phẩm ưng ý. Mỗi khâu không làm kỹ và dồn tâm sức vào đó thì coi như thành phẩm cuối cùng sẽ đổ sông đổ biển cho nên nghề đúc đồng đòi hỏi người lao động phải thực sự yêu nghề, có tâm huyết và có một đôi bàn tay tài hoa, một tinh thần nghệ sĩ trong đó nữa. Nếu bạn nhận thấy mình có những yếu tố đó, hãy tìm đến nghề đúc đồng tại các địa chỉ nổi tiếng dưới đây. Mẫu đơn xin việc 4. Những làng nghề đúc đồng có tiếng của Việt Nam Có những cái tên gắn liền theo năm tháng với nghề đúc đồng. Khi có nhu cầu mua sản phẩm đồng chất lượng và đẹp mắt hoặc ngay cả khi bạn muốn thể hiện những tài hoa của mình cũng có thể tìm đến những làng nghề nổi tiếng mà Bích Phượng sẽ kể ra ngay sau đây. Thứ nhất có thể nhắc tới đó là làng đúc đồng truyền thống Ngũ Xá ở mảnh đất Thủ đô. Vốn nổi tiếng từ lâu đời nhờ kỹ xảo tuyệt mĩ trong các sản phẩm như trống đồng,tượng đồng, chuông đồng, đồ thờ đồng, tranh đồng mang theo đường nét nét tinh hoa xếp vào hàng bậc nhất của kinh thành Thăng Long xưa, cho nên đến nay, Ngũ Xá có được nhiều lợi thế phát triển. Nhiều người biết đến cái tiếng tăm ấy mà không ngần ngại thể hiện tình yêu nghề của mình để tìm đến đây xin việc. Làng nghề đúc đồng Tiếp theo, những cái tên nhất định phải “ngó” qua nếu như muốn phát triển tay nghề trong công việc đúc đồng của bạn đó là làng nghề đồng Đại Bái ở vùng quê Kinh Bắc, Tống Xá tại Nam Định hay Đồng Chè – Thanh Hóa,…Những cái tên đã trở thành lịch sử của nghề đúc đồng truyền thống này sẽ mang tới cho bạn rất nhiều cơ hội được phát triển nghề nghiệp và thỏa mãn sức sáng tạo và thể hiện sự tài hoa của mình. Tìm việc làm Như vậy, những thông tin về nghề đúc đồng Việt Nam mà Bích Phượng gửi gắm trong bài viết này đã phần nào mang đến cho bạn hiểu biết cơ bản về một nghề truyền thống. Đồng thời, nhen nhóm lên trong bạn những khát khao được thỏa mãn đam mê với nghề. Nếu có nhu cầu tìm việc làm trong các làng nghề đúc đồng truyền thống, bạn có thể tìm kiếm cơ hội đó trên – một website nổi tiếng chuyên cung cấp việc làm uy tín và hấp dẫn. Hệ thống sẽ mang đến cho bạn nhiều gợi ý phù hợp với mong muốn của bạn. Dưới đây là một nhu cầu điển hình trong tuyển dụng lao động đối với nghề đúc đồng bạn có thể tham khảo Tải xuống ngay Từ khóa liên quan Chuyên mục
Selfomy Hỏi Đáp Học tập Vật lý Vật lý lớp 6 Trong việc đúc tượng đồng có những... 11 Trả lời đã trả lời 21 tháng 4, 2017 bởi ducanh6d5 Học sinh 110 điểm Trong việc đúc tượng đồng có những quá trình chuyển thể - Đồng nóng chảy từ thể rắn sang thể lỏng khi nung trong lò - Đồng lỏng đông đặc từ thể lỏng sang thể rắn khi nguội trong khuôn đúc đã trả lời 17 tháng 5, 2017 bởi Khách ĐỒNG CHUYỂN TỪ THỂ RẮN SANG LỎNG TRONG LÒ NUNG ĐỒNG CHUYỂN TỪ LỎNG SANG LỎNG SANG RẮN KHI NGUỘI TRONG KHUÔN ĐÚC Các câu hỏi liên quan Trong việc đúc tượng đồng, có những quá trình chuyển thể nào của đồng các bạn trả lời nhanh nha , mk cần gấp đã hỏi 15 tháng 6, 2020 trong Vật lý lớp 6 bởi Khách 3 câu trả lời 848 lượt xem đã hỏi 15 tháng 5, 2017 trong Vật lý lớp 6 bởi Maitrang Thần đồng 721 điểm 5 câu trả lời 393 lượt xem trong việc đúc tượng đồng,có những quá trình chuyển thể nào của đồng đã hỏi 26 tháng 3, 2017 trong Vật lý lớp 6 bởi yoongi ca Cử nhân điểm đã hỏi 20 tháng 4, 2016 trong Vật lý lớp 6 bởi Bùi Phan Thùy Linh Là môn Vật Lý nha các bác ạ đã hỏi 31 tháng 3, 2020 trong Vật lý lớp 6 bởi Lãnh Hàn Thiên Munz 2 câu trả lời 813 lượt xem đã hỏi 16 tháng 4, 2017 trong Vật lý lớp 6 bởi maidtp14 Học sinh 119 điểm ...
trong việc đúc đồng